Cao nguyên Lang Biang trước năm 1893 là địa bàn cư trú của các tộc người Thượng. Người Việt đầu tiên có ý định khám phá vùng rừng núi Nam Trung Bộ là Nguyễn Thông, nhưng do nhiều lí do nên cho tới cuối đời ông vẫn không thực hiện được ý định của mình.
ào hai năm 1880 và 1881, bác sĩ hải quân Paul Néis và trung úy Albert Septans có những chuyến thám hiểm đầu tiên vào vùng người Thượng ở Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ, và họ được coi là hai nhà thám hiểm đầu tiên đã tìm ra cao nguyên Lang Biang. Hành trình của Paul Néis và Albert Septans mở đường cho nhiều chuyến đi khác như A. Gautier (năm 1882), L. Nouet (1882), thiếu tá Humann (1884).
Ngày 3 tháng 8 năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên với ý định tìm đường núi từ Nha Trang vào Sài Gòn, nhưng chuyến đi này bất thành. Từ 28 tháng 3 đến 9 tháng 6 năm 1892, Yersin thực hiện một cuộc thám hiểm từ Nha Trang, băng qua vùng cao nguyên Đắk Lắk để đến Stung Treng, nằm bên bờ sông Mê Công (thuộc địa phận Campuchia).
Tháng 1 1893, Yersin nhận nhiệm vụ từ toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan, khảo sát một tuyến đường bộ từ Sài Gòn xuyên sâu vào vùng người Thượng và kết thúc ở một địa điểm thuận lợi trên bờ biển Trung Kỳ. Yersin còn phải tìm hiểu về tài nguyên trong vùng: lâm sản, khoáng sản, khả năng chăn nuôi... Từ ngày 8 tháng 4 đến ngày 26 tháng 6 năm 1893, Yersin đã thực hiện ba chuyến đi quan trọng. Và 15h30 ngày 21 tháng 6, Yersin đã phát hiện ra cao nguyên Lang Biang, trong nhật ký hành trình, ông ghi vắn tắt "3h30: grand plateau dénudé mamelonné" (3h30: cao nguyên lớn trơ trụi, gò đồi nhấp nhô).
Với nhu cầu tìm một vùng đất có khí hậu ôn hòa, gần giống với châu Âu để xây dựng khu nghỉ mát, trạm điều dưỡng, toàn quyền Paul Doumer viết một bức thư hỏi ý kiến của Yersin, và Yersin đã trả lời là cao nguyên Lang Biang. Tháng 3 năm 1899, Yersin cùng toàn quyền Doumer thực hiện một chuyến đi lên cao nguyên Lang Biang và chuyến đi này có ý nghĩa quyết định về việc thành lập một trạm điều dưỡng ở đây.
Ngày 1 tháng 11 năm 1899, Doumer ký nghị định thành lập ở Trung Kỳ tỉnh Đồng Nai Thượng (Haut-Donnai) và hai trạm hành chính được thiết lập tại Tánh Linh và trên cao nguyên Lang Biang. Đó có thể được xem là văn kiện chính thức thành lập trạm điều dưỡng trên cao nguyên Lang Biang – tiền thân của thành phố Đà Lạt sau này.
Ngày 20 tháng 4 năm 1916, vua Duy Tân đã ra đạo dụ thành lập thị tứ, tức thị xã (centre urbain) Đà Lạt, tỉnh lị tỉnh Lâm Viên. Đạo dụ này được Khâm sứ J.E. Charles chuẩn y ngày 30 tháng 5 năm 1916.
Trong hai thập niên 1900 và 1910, người Pháp đã xây dựng hai tuyến đường từ Sài Gòn và từ Phan Thiết lên Đà Lạt. Hệ thống giao thông thuận lợi giúp Đà Lạt phát triển nhanh chóng. Vào năm 1893, vùng Đà Lạt ngày nay hầu như hoang vắng. Đến đầu năm 1916, Đà Lạt vẫn còn là một khu thị tứ nhỏ với độ 8 căn nhà gỗ tập trung hai bên bờ dòng Cam Ly, chỉ có 9 phòng khách sạn phục vụ du khách, đến cuối năm này mới nâng lên được 26 phòng. Cuối năm 1923, đồ án thiết kế đầu tiên hoàn thành, Đà Lạt đã có 1.500 dân.
Ngày 31 tháng 10 năm 1920, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ ngày 11 tháng 10 cùng năm của vua Khải Định về việc thành lập thành phố (commune- thành phố loại 2) Đà Lạt cùng với việc tỉnh Đồng Nai Thượng được tái lập. Nhằm biến Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ mát ở Đông Dương, Nha giám đốc các sở nghỉ mát Lâm Viên và du lịch Nam Trung Kỳ được thành lập. Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý, đại diện của Toàn quyền Đông Dương. Năm 1928 chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai Thượng về Đà Lạt. Năm 1936 một Hội đồng thành phố được bầu ra. Năm 1941, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Lâm Viên (Lang Bian) mới tái lập. Thị trưởng Đà Lạt kiêm chức Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Viên.
Trong thời gian Thế chiến thứ hai, những người Pháp không thể về chính quốc nên họ tập trung lên nghỉ ở Đà Lạt. Nhiều nhu cầu rau ăn, hoa quả của người Pháp cũng được Đà Lạt cung cấp.
Ngày 10 tháng 11 năm 1950, Bảo Đại ký Dụ số 4-QT/TD ấn định địa giới thị xã Đà Lạt.
Theo Địa phương chí Đà Lạt (Monographie de Dalat), năm 1953, thị xã Đà Lạt là thủ phủ của Hoàng triều Cương thổ, có diện tích là 67 km², dân số: 25.041 người.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, dân số Đà Lạt tăng nhanh bởi lượng người di cư từ Bắc vào Nam. Dưới chính quyền miền Nam, Đà Lạt được phát triển như một trung tâm giáo dục và khoa học.
Năm 1957, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Tuyên Đức. Thị xã Đà Lạt có 10 khu phố.
Nhiều trường học và trung tâm nghiên cứu được thành lập: Viện Đại học Đà Lạt (1957), Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt (1959), Thư viện Đà Lạt (1960), trường Đại học Chiến tranh Chính trị (1966), trường Chỉ huy và Tham mưu (1967)... Các công trình phục vụ du lịch được tiếp tục xây dựng và sửa chữa, hàng loạt biệt thự do các quan chức Sài Gòn, nhiều chùa chiền, nhà thờ, tu viện được xây dựng... Đà Lạt cũng là một điểm hấp dẫn với giới văn nghệ sĩ.
Sau 1975, với sự rút đi của quân đội và bộ máy chính quyền miền Nam, nhưng được bổ sung bởi lượng cán bộ và quận đội miền Bắc, dân số Đà Lạt ổn định ở con số khoảng 86 ngàn người. Du lịch Đà Lạt hầu như bị lãng quên. Những năm cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, hàng loạt khách sạn, nhà hàng được sửa chữa, nhiều biệt thự được đưa vào phục vụ du lịch... Đà Lạt trở thành một thành phố du lịch quan trọng của Việt Nam với nhiều lễ hội được tổ chức.
Cuối năm 1975 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định Đà Lạt sẽ trở thành 1 trong 4 thành phố trực thuộc Trung ương, nhưng ngay sau đó đã điều chỉnh lại. Tháng 2 năm 1976 Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Nghị định hợp nhất tỉnh Tuyên Đức, tỉnh Lâm Đồng và thị xã Đà Lạt thành tỉnh Lâm Đồng. Thị xã Đà Lạt trở thành thành phố tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng .
Vị trí - Địa hình - Khí hậu :
Vị trí
Thành phố Đà Lạt nằm trong cao nguyên Lang Biang, phía Bắc tỉnh Lâm Đồng, Về phía Bắc, Đà Lạt giáp với huyện Lạc Dương, về phía Đông và Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương, về phía Tây và Tây Nam giáp với hai huyện Lâm Hà và Đức Trọng.
Thành phố Đà Lạt nằm trong cao nguyên Lang Biang, phía Bắc tỉnh Lâm Đồng, Về phía Bắc, Đà Lạt giáp với huyện Lạc Dương, về phía Đông và Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương, về phía Tây và Tây Nam giáp với hai huyện Lâm Hà và Đức Trọng.
Hàng trăm năm trước đây, Đà Lạt là địa bàn cư trú của người Lạch, vốn là cư dân của toàn bộ cao nguyên Lang Biang. Đà Lạt có diện tích hơn 400 km², bao bọc bởi các đỉnh núi cao và dãy núi liên tiếp:
- Phía Bắc và Tây Bắc giới hạn bởi dãy Chorơmui, Yộ Đa Myut (1.816 m), Tây Bắc dựa vào chân dãy núi Chư Yang Kae (1.921 m), thuộc quần sơn Lang Biang mà đỉnh cao nhất là Chư Yang Sinh (1.408 m).
- Phía Đông là chân dãy núi Bi Doup (2.278 m) dốc xuống cao nguyên Dran.
- Phía Đông Nam chắn bởi dãy Cho Proline (1.629 m).
- Phía Nam và Tây Nam có dãy núi Voi (1.754 m) và Yàng Sơreng bao bọc.
Địa hình
Cao trung bình so với mặt biển là 1.500 m. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là Nhà Bảo Tàng (1.532 m), nơi thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương (1.398,2 m).
Cao trung bình so với mặt biển là 1.500 m. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là Nhà Bảo Tàng (1.532 m), nơi thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương (1.398,2 m).
Bên trong cao nguyên, địa hình Đà Lạt phân thành hai bậc rõ rệt:
- Bậc địa hình thấp là vùng trung tâm có dạng như một lòng chảo bao gồm các dãy đồi đỉnh tròn, dốc thoải có độ cao tương đối 25-100 m, lượn sóng nhấp nhô, độ phân cắt yếu, độ cao trung bình khoảng 1.500 m.
- Bao quanh khu vực lòng chảo này là các đỉnh núi với độ cao khoảng 1.700 m tạo thành vành đai che chắn gió cho vùng trung tâm. Phía Đông Bắc có hai núi thấp: hòn Ông (Láp Bê Bắc 1.738 m) và hòn Bộ (Láp Bê Nam 1.709 m). Ở phía Bắc, ngự trị cao nguyên Lang Biang là dãy núi Bà (Lang Biang) hùng vĩ, cao 2.169 m, kéo dài theo trục Đông Bắc - Tây Nam từ suối Đa Sar (đổ vào Đa Nhim) đến Đa Me (đổ vào Đạ Đờng). Phía Đông án ngữ bởi dãy núi đỉnh Gió Hú (1.644 m). Về phía Tây Nam, các dãy núi hướng vào Tà Nung giữa dãy Yàng Sơreng mà các đỉnh cao tiêu biểu là Pin Hatt (1.691 m) và You Lou Rouet (1.632 m).
Bên ngoài cao nguyên là các dốc núi từ hơn 1.700 m đột ngột đổ xuống các cao nguyên bên dưới có độ cao từ 700m đến 900m.
Khí hậu
Do ảnh hưởng của độ cao và rừng thông bao bọc, Đà Lạt mang nhiều đặc tính của miền ôn đới. Nhiệt độ trung bình 18–21°C, nhiệt độ cao nhất chưa bao giờ quá 30°C và thấp nhất không dưới 5°C. Đà Lạt có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 4. Mùa hè thường có mưa vào buổi chiều, đôi khi có mưa đá.
Lượng mưa trung bình năm là 1562 mm và độ ẩm 82%.
Đà Lạt không bao giờ có bão, chỉ có gió lớn do ảnh hưởng bão từ biển thổi vào vì sườn đông không
Chợ Đà Lạt: Năm 1929, một ngôi chợ bằng cây, lợp tôn gọi là “Chợ cây” được dựng lên tại vị trí Rạp chiếu bóng 3 tháng 4 ở Khu Hòa Bình hiện nay.
Năm 1937, sau một trận hỏa hoạn lớn, Công ty SIDEC xây dựng một ngôi chợ mới bằng gạch để thay thế “Chợ cây”.
Năm 1958, chợ Đà Lạt hiện nay được khởi công xây dựng trên một vùng đất sình lầy trồng xà-lách-son (cresson), do kiến trúc sư Nguyễn Duy Đức thiết kế, nhà thầu Nguyễn Linh Chiểu thi công, hoàn thành vào năm 1960. Về sau, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ tham gia chỉnh trang chợ Đà Lạt.
Ngày 3.4.1993, khởi công xây dựng khối B chợ Đà Lạt do kiến trúc sư Lê Văn Rọt và Trần Hùng thiết kế. Công trình do Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Lạt và Ngân hàng Việt Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh hợp tác đầu tư.
Chợ Đà Lạt có 3 tầng, là một trong những chợ lầu đầu tiên ở Việt Nam.
Thung lũng tình yêu: Năm 1972, hồ Đa Thiện rộng 6 ha được hình thành sau khi một đập nước được xây dựng ngăn giữa hai ngọn đồi để giữ nước phục vụ sản xuất và tạo nên một thắng cảnh thơ mộng với mặt hồ phẳng lặng giữa những đồi thông trùng điệp.
Năm 1972, hồ Đa Thiện rộng 6 ha được hình thành sau khi một đập nước được xây dựng ngăn giữa hai ngọn đồi để giữ nước phục vụ sản xuất và tạo nên một thắng cảnh thơ mộng với mặt hồ phẳng lặng giữa những đồi thông trùng điệp.
Đập nước này thường gọi là Đập III Đa Thiện. Trước đó, Đa Thiện đã xây dựng 2 đập nước khác, nhỏ hơn dùng cho trồng rau.
Thung lũng hồ Đa Thiện được mang tên Thung lũng Tình yêu (Vallée d’Amour) và giải thích theo hai cách:
- Trong nửa đầu thế kỷ 20, thung lũng gần Dinh Bảo Đại (Dinh III) được gọi là Vallée d’Amour (Thung lũng Tình yêu), sinh viên Viện Đại học Đà Lạt nhận thấy thung lũng gần ấp Đa Thiện là nơi hẹn hò lý tưởng của thanh niên nên cũng đặt tên là Thung lũng Tình yêu.
- Hướng đạo sinh thường cắm trại ở thung lũng Đa Thiện và đặt tên Thung lũng Tình yêu với ý nghĩa tình yêu thiên nhiên, đất nước.
Cách Khu Hoà Bình 4,6 km về hướng Bắc theo đường chim bay. Thung lũng Tình yêu là một trung tâm du lịch thanh thiếu niên do Công ty dịch vụ du lịch thanh niên Đà Lạt quản lý, với diện tích 342 ha. Du khách đến tham quan thường dừng lại trên đồi cao, chụp ảnh, ngắm nhìn toàn cảnh đồi núi chập chùng, đỉnh núi Lang Biang án ngữ phía Bắc, cưỡi ngựa, đi xe đạp nước, dùng du thuyền lướt trên mặt hồ, mua đặc sản hay tổ chức những bữa ăn dã ngoại nhẹ nhàng.
Có 3 lộ trình đi từ Khu Hoà Bình đến Thung lũng Tình yêu:
- Khu Hòa Bình - Lê Đại Hành - Nguyễn Thái Học - Đinh Tiên Hoàng - Phù Đổng Thiên Vương - Đường vòng Lâm Viên.
- Khu Hòa Bình - Nguyễn Văn Trỗi - Bùi Thị Xuân - Phù Đổng Thiên Vương - Đường vòng Lâm Viên.
Vườn tượng nghệ thuật Đà Lạt :
Thành phố sương mù Đà Lạt có thêm một điểm dừng chân mới cho lữ khách đến tham quan và đặc biệt dành cho những ai muốn tìm hiểu về bộ môn mỹ thuật đầy tính sáng tạo này.
Nằm ở lưng chừng đồi, trong khuôn viên rộng khoảng 2.400m2 bên ngôi biệt thự tĩnh mịch cổ kính, nơi cách đây hơn bốn thập kỷ là chốn sinh hoạt ca hát giải trí nổi tiếng một thời của văn nghệ sĩ Đà Lạt. Đó chính là vườn tượng nghệ thuật sắp đặt của điêu khắc gia Phạm Văn Hạng (hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam và TP.HCM) toạ lạc trên rừng thông Yên Thế, cách trung tâm Đà Lạt chừng 5,5km.
Khác với những điểm tham quan khác, du khách vào đây không có thuyết minh hay hướng dẫn mà tự nhìn ngắm thoải mái và tự do, đó cũng là chủ ý của chủ nhân khu vườn tượng này, bởi nghệ thuật không thể nói hay hướng dẫn cụ thể.
Vừa bước vào khu vườn, trước mắt du khách hiện ra là một thiếu nữ nằm nghiêng xoã tóc ngâm mình trong làn nước, được rải lên nhiều hoa thơm cỏ lạ, và xung quanh hơn chục tác phẩm lộ thiên nằm rải rác một cách ngẫu nhiên, tinh tế. Chúng được chế tác bằng đá, bê tông, hàm chứa nhiều ý nghĩa nhưng tất cả đều ẩn chứa ước vọng của nhân loại cho hoà bình.
Vào bên trong biệt thự là phòng trưng bày - nơi gặp gỡ của hơn hai mươi bức chân dung bằng đồng, hơn chục bức tranh sơn dầu, hình ảnh của các văn nhân hào hoa, văn nghệ sĩ, nhà văn vang bóng một thời như Alexandre Emile John Yersin, Trịnh Công Sơn, Đoàn Chuẩn, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Bùi Xuân Phái, Trần Văn Khê, Nguyễn Tuân... Bên cạnh là một tập thơ được viết trên "trang giấy" bằng đồng rất lạ và hay cùng nhiều tài liệu về mỹ thuật Việt Nam đương đại.
Sau khi dạo qua một vòng bên ngoài lẫn trong, du khách có thể "cảm" hết giá trị nhân văn mà tác giả muốn gửi gắm thông qua từng chi tiết trong mỗi tác phẩm và càng giá trị hơn cho những ai có cùng tâm hồn đồng điệu.
Khác với những điểm tham quan khác, du khách vào đây không có thuyết minh hay hướng dẫn mà tự nhìn ngắm thoải mái và tự do, đó cũng là chủ ý của chủ nhân khu vườn tượng này, bởi nghệ thuật không thể nói hay hướng dẫn cụ thể.
Vừa bước vào khu vườn, trước mắt du khách hiện ra là một thiếu nữ nằm nghiêng xoã tóc ngâm mình trong làn nước, được rải lên nhiều hoa thơm cỏ lạ, và xung quanh hơn chục tác phẩm lộ thiên nằm rải rác một cách ngẫu nhiên, tinh tế. Chúng được chế tác bằng đá, bê tông, hàm chứa nhiều ý nghĩa nhưng tất cả đều ẩn chứa ước vọng của nhân loại cho hoà bình.
Vào bên trong biệt thự là phòng trưng bày - nơi gặp gỡ của hơn hai mươi bức chân dung bằng đồng, hơn chục bức tranh sơn dầu, hình ảnh của các văn nhân hào hoa, văn nghệ sĩ, nhà văn vang bóng một thời như Alexandre Emile John Yersin, Trịnh Công Sơn, Đoàn Chuẩn, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Bùi Xuân Phái, Trần Văn Khê, Nguyễn Tuân... Bên cạnh là một tập thơ được viết trên "trang giấy" bằng đồng rất lạ và hay cùng nhiều tài liệu về mỹ thuật Việt Nam đương đại.
Sau khi dạo qua một vòng bên ngoài lẫn trong, du khách có thể "cảm" hết giá trị nhân văn mà tác giả muốn gửi gắm thông qua từng chi tiết trong mỗi tác phẩm và càng giá trị hơn cho những ai có cùng tâm hồn đồng điệu.
Sân khấu nhạc nước Cam Ly
Lần đầu tiên một sân khấu nhạc nước hiện đại, quy mô lớn được xây dựng ngay dưới chân thác Cam Ly, một thắng cảnh nổi tiếng của Đà Lạt (Lâm Đồng).
Thác Cam Ly chỉ cách trung tâm TP Đà Lạt gần 3 km, là dòng thác đẹp nổi tiếng của Đà Lạt. Vào mùa mưa, nước từ thượng nguồn (hồ Xuân Hương) đổ về tạo thành màn sương trắng xóa phủ lên triền đá nhấp nhô trông rất thơ mộng. Thác Cam Ly đã từng đi vào ký ức của nhiều thế hệ, đi vào thơ ca, nhạc họa... làm say mê lòng người lữ khách.
Khoảng 15 năm gần đây, khi đô thị Đà Lạt không ngừng phát triển, nhiều khu dân cư lần lượt mọc lên dọc theo hai bên suối Cam Ly đã làm cho dòng thác này bị ô nhiễm trầm trọng. Ông Phạm Xuân Sinh, Giám đốc khu du lịch thác Cam Ly cho biết công ty đang có phương án xây dựng một phao cao su để ngăn nước bẩn đổ xuống thác; kèm theo đó sẽ thiết kế hệ thống bơm nước sạch lên thượng nguồn để tạo dòng thác trong lành.
Sân khấu nhạc nước Cam Ly có 24 hiệu ứng, các ca sĩ chỉ cần đưa bài hát trước 3 ngày sẽ lập trình xong phần mềm nhạc nước “múa” phụ họa khi ca sĩ hát. Vốn đầu tư cho công trình văn hóa nghệ thuật này khoảng 20 tỉ đồng.
Dù phương án làm trong sạch dòng thác chưa được triển khai, nhưng sau khi được thuê mặt bằng (trong 5 năm) và được phép của Bộ VH-TT-DL, Công ty công nghệ giải trí Tết bắt tay xây dựng công trình nhạc nước đầu tiên ngay dưới chân thác Cam Ly. Nhiều người cho rằng đây là một sự mạo hiểm.
Thế nhưng anh Trần Trọng Tân, chủ nhân của sân khấu nhạc nước Cam Ly lại rất tự tin: "Cam Ly là một trong những dòng thác đẹp nhất ở Đà Lạt, tôi mê Cam Ly từ rất lâu, tôi muốn "đánh thức" Cam Ly bằng một sân khấu nhạc nước hiện đại bậc nhất Việt Nam". Theo anh Tân, Đà Lạt ban ngày thì đầy ắp chương trình cho du khách tham quan, nhưng về đêm không có sân chơi nào cả, nên anh muốn tạo ra một sản phẩm du lịch mới cho phố núi này. Tân cũng từng là thành viên của ban nhạc của nhạc sĩ Lê Hựu Hà. Anh đã bỏ ra 3 tháng để nghiên cứu và lập trình thành công chương trình nhạc nước riêng của mình.
Suốt 7 tháng qua, Tân cùng với công nhân biến triền đồi thung lũng đầy cỏ dại trở thành khán đài 2.500 chỗ ngồi, cùng với nhà hàng hình cung (300 chỗ ngồi) uốn cong theo dòng suối Cam Ly được lắp kính trong để du khách có thể vừa ngồi thưởng thức các món ăn vừa xem nghệ thuật nhạc nước.
Hiện nay, Tân và đội ngũ kỹ thuật viên đang cho chạy thử chương trình nhạc nước với những tác phẩm đặc trưng Đà Lạt như: Đà Lạt gió và mây, Đà Lạt lập đông, Thiếu nữ mùa xuân, Thương về miền đất lạnh, Ai lên xứ hoa đào, K'Bing ơi... để phục vụ cho chương trình âm nhạc Những dòng sông hò hẹn, sẽ được truyền hình trực tiếp đến nhiều tỉnh thành phía Nam.
Thác Cam Ly chỉ cách trung tâm TP Đà Lạt gần 3 km, là dòng thác đẹp nổi tiếng của Đà Lạt. Vào mùa mưa, nước từ thượng nguồn (hồ Xuân Hương) đổ về tạo thành màn sương trắng xóa phủ lên triền đá nhấp nhô trông rất thơ mộng. Thác Cam Ly đã từng đi vào ký ức của nhiều thế hệ, đi vào thơ ca, nhạc họa... làm say mê lòng người lữ khách.
Khoảng 15 năm gần đây, khi đô thị Đà Lạt không ngừng phát triển, nhiều khu dân cư lần lượt mọc lên dọc theo hai bên suối Cam Ly đã làm cho dòng thác này bị ô nhiễm trầm trọng. Ông Phạm Xuân Sinh, Giám đốc khu du lịch thác Cam Ly cho biết công ty đang có phương án xây dựng một phao cao su để ngăn nước bẩn đổ xuống thác; kèm theo đó sẽ thiết kế hệ thống bơm nước sạch lên thượng nguồn để tạo dòng thác trong lành.
Sân khấu nhạc nước Cam Ly có 24 hiệu ứng, các ca sĩ chỉ cần đưa bài hát trước 3 ngày sẽ lập trình xong phần mềm nhạc nước “múa” phụ họa khi ca sĩ hát. Vốn đầu tư cho công trình văn hóa nghệ thuật này khoảng 20 tỉ đồng.
Dù phương án làm trong sạch dòng thác chưa được triển khai, nhưng sau khi được thuê mặt bằng (trong 5 năm) và được phép của Bộ VH-TT-DL, Công ty công nghệ giải trí Tết bắt tay xây dựng công trình nhạc nước đầu tiên ngay dưới chân thác Cam Ly. Nhiều người cho rằng đây là một sự mạo hiểm.
Thế nhưng anh Trần Trọng Tân, chủ nhân của sân khấu nhạc nước Cam Ly lại rất tự tin: "Cam Ly là một trong những dòng thác đẹp nhất ở Đà Lạt, tôi mê Cam Ly từ rất lâu, tôi muốn "đánh thức" Cam Ly bằng một sân khấu nhạc nước hiện đại bậc nhất Việt Nam". Theo anh Tân, Đà Lạt ban ngày thì đầy ắp chương trình cho du khách tham quan, nhưng về đêm không có sân chơi nào cả, nên anh muốn tạo ra một sản phẩm du lịch mới cho phố núi này. Tân cũng từng là thành viên của ban nhạc của nhạc sĩ Lê Hựu Hà. Anh đã bỏ ra 3 tháng để nghiên cứu và lập trình thành công chương trình nhạc nước riêng của mình.
Suốt 7 tháng qua, Tân cùng với công nhân biến triền đồi thung lũng đầy cỏ dại trở thành khán đài 2.500 chỗ ngồi, cùng với nhà hàng hình cung (300 chỗ ngồi) uốn cong theo dòng suối Cam Ly được lắp kính trong để du khách có thể vừa ngồi thưởng thức các món ăn vừa xem nghệ thuật nhạc nước.
Hiện nay, Tân và đội ngũ kỹ thuật viên đang cho chạy thử chương trình nhạc nước với những tác phẩm đặc trưng Đà Lạt như: Đà Lạt gió và mây, Đà Lạt lập đông, Thiếu nữ mùa xuân, Thương về miền đất lạnh, Ai lên xứ hoa đào, K'Bing ơi... để phục vụ cho chương trình âm nhạc Những dòng sông hò hẹn, sẽ được truyền hình trực tiếp đến nhiều tỉnh thành phía Nam.
Hồ Tuyền Lâm
Vị trí: Hồ Tuyền Lâm nằm cách trung tâm thành phố Đà Lạt 5km về hướng nam.
Đặc điểm: Hồ Tuyền Lâm rộng hơn 360ha, là địa điểm thích hợp cho các hoạt động thể thao, leo núi, chèo thuyền, câu cá.
Đặc điểm: Hồ Tuyền Lâm rộng hơn 360ha, là địa điểm thích hợp cho các hoạt động thể thao, leo núi, chèo thuyền, câu cá.
Từ một thung lũng hoang vu ở độ cao hơn 1.000m so với mặt biển, hồ Tuyền Lâm đã được cải tạo thành điểm nghỉ mát lý tưởng của vùng cao. Hồ nằm cách Ðà Lạt 5km, gọn gàng giữa rừng thông mênh mông và dòng suối tía huyền thoại. Mùa khô ở vùng này kéo dài 6 tháng, không một hạt mưa, nhưng lòng hồ vẫn đầy ắp nước. Mặt hồ quanh năm xanh biếc, hiếm khi có sóng lớn. Rừng thông ba lá phủ kín những ngọn núi, quả đồi quanh đó, trải ngút ngàn tầm mắt. Tất cả cùng hòa quyện, vẽ nên bức tranh thiên nhiên yên tĩnh, thanh bình và thơ mộng lạ kỳ. Ai đến thăm Ðà Lạt cũng ghé Thiền viện Trúc Lâm để từ trên đỉnh núi Phượng Hoàng phóng tầm mắt về phía đông nam, chiêm ngưỡng thắng cảnh nổi tiếng được tạo bởi bàn tay con người này.
Có người dành cả ngày để du ngoạn trên hồ, tận hưởng không khí trong lành, mát mẻ và sự tĩnh lặng quý báu. Trên bờ, khách có thể tìm hiểu những nét văn hóa của các dân tộc thiểu số nam Tây Nguyên với thịt nướng, cơm lam, rượu cần, đốt lửa trại; tham gia lễ hội cồng chiêng; ngắm nhìn những tác phẩm điêu hkhắc gỗ; thư giãn trên những ngôi nhà sàn, nhà dài lộng gió; bắn cung và thám hiểm rừng sâu.
Cùng với trò chơi hóa trang thành các chàng trai, cô gái miền sơn cước, du khách thường rất hứng thú với các hoạt động thể thao nhẹ nhàng như bóng đá một gôn, bóng chuyền trên cát, nhà dù, câu cá, cưỡi voi, cưỡi ngựa. Hiện có 5 con voi đã thuần dưỡng đang sống tại khu du lịch Tuyền Lâm và khu dã ngoại Ðá Tiên. Nhiều loại thú hoang mất dấu nhiều năm nay đã quay về như khỉ, sư tử mặt đỏ cùng nhiều động vật khác sống thành đàn. Năm 2001, có gần 100 nghìn khách tham gia các tour du lịch trên hồ, khoảng 15% là du khách quốc tế, chủ yếu là khách châu Âu. Họ thường chọn những chương trình thám hiểm rừng sâu để quan sát chim thú và ghi âm những âm thanh của núi rừng. Vào xuân, hồ Tuyền Lâm lấp lánh màu ngọc bích, tô đậm thêm nét thơ mộng, lãng mạn của Ðà Lạt vốn đã xinh tươi.
Để tới Hồ Tuyền Lâm, ta theo quốc lộ 20, lên đèo Prenn, qua khỏi thác Ðatanla rẽ về phía trái chừng hơn 1km, băng qua những rừng thông ngút ngàn, du khách sẽ bắt gặp Hồ Tuyền lâm xanh biếc và đầy vẻ quyến rũ.
Với diện tích mặt nước khoảng 350ha, hồ Tuyền Lâm được tạo thành bởi dòng suối Tía.
Tên hồ không biết có tự bao giờ và do ai đặt, nhưng có lẽ cũng do xuất phát từ khung cảnh thiên nhiên kỳ vĩ ở đây mà tên gọi ấy đã sống mãi. Ðó là nơi gặp gỡ giữa sông, suối và cây rừng.
Năm 1982, để đảm bảo nước tưới cho hàng trăm ha lúa của huyện Ðức Trọng, Nhà nước đã cho xây dựng đập ngăn nước tại đây. Năm năm sau, công trình được hoàn thành và đã dần dần trở nên một điểm tham quan, du lịch không thể thiếu đối với nhiều người. Với mặt nước mênh mông quanh co dưới chân những ngọn núi nhấp nhô, trùng điệp, ở mỗi khúc quanh, non nước trời mây hình như luôn biến đổi. Nơi này là rừng thông non, nơi kia là non cao với lớp lớp ngàn thông thẳng tắp. Tuyền Lâm ! thật đúng là non xanh nước biếc, phong cảnh hữu tình.Vào những ngày đẹp trời, dùng canô hay thuyền buồm du ngoạn trên mặt hồ, du khách sẽ được chiêm ngưỡng tận mắt những đồi thông xanh mởn, xen giữa là những cụm rừng già và những sườn đồi thoai thoải, soi bóng xuống mặt hồ. Trước khung cảnh ấy, lòng ta như bâng khuâng, đồng thời lại có cảm giác như vừa trút bỏ được hết những vướng bận của bụi trần để bước chân vào chốn thần tiên.
Cùng với trò chơi hóa trang thành các chàng trai, cô gái miền sơn cước, du khách thường rất hứng thú với các hoạt động thể thao nhẹ nhàng như bóng đá một gôn, bóng chuyền trên cát, nhà dù, câu cá, cưỡi voi, cưỡi ngựa. Hiện có 5 con voi đã thuần dưỡng đang sống tại khu du lịch Tuyền Lâm và khu dã ngoại Ðá Tiên. Nhiều loại thú hoang mất dấu nhiều năm nay đã quay về như khỉ, sư tử mặt đỏ cùng nhiều động vật khác sống thành đàn. Năm 2001, có gần 100 nghìn khách tham gia các tour du lịch trên hồ, khoảng 15% là du khách quốc tế, chủ yếu là khách châu Âu. Họ thường chọn những chương trình thám hiểm rừng sâu để quan sát chim thú và ghi âm những âm thanh của núi rừng. Vào xuân, hồ Tuyền Lâm lấp lánh màu ngọc bích, tô đậm thêm nét thơ mộng, lãng mạn của Ðà Lạt vốn đã xinh tươi.
Để tới Hồ Tuyền Lâm, ta theo quốc lộ 20, lên đèo Prenn, qua khỏi thác Ðatanla rẽ về phía trái chừng hơn 1km, băng qua những rừng thông ngút ngàn, du khách sẽ bắt gặp Hồ Tuyền lâm xanh biếc và đầy vẻ quyến rũ.
Với diện tích mặt nước khoảng 350ha, hồ Tuyền Lâm được tạo thành bởi dòng suối Tía.
Tên hồ không biết có tự bao giờ và do ai đặt, nhưng có lẽ cũng do xuất phát từ khung cảnh thiên nhiên kỳ vĩ ở đây mà tên gọi ấy đã sống mãi. Ðó là nơi gặp gỡ giữa sông, suối và cây rừng.
Năm 1982, để đảm bảo nước tưới cho hàng trăm ha lúa của huyện Ðức Trọng, Nhà nước đã cho xây dựng đập ngăn nước tại đây. Năm năm sau, công trình được hoàn thành và đã dần dần trở nên một điểm tham quan, du lịch không thể thiếu đối với nhiều người. Với mặt nước mênh mông quanh co dưới chân những ngọn núi nhấp nhô, trùng điệp, ở mỗi khúc quanh, non nước trời mây hình như luôn biến đổi. Nơi này là rừng thông non, nơi kia là non cao với lớp lớp ngàn thông thẳng tắp. Tuyền Lâm ! thật đúng là non xanh nước biếc, phong cảnh hữu tình.Vào những ngày đẹp trời, dùng canô hay thuyền buồm du ngoạn trên mặt hồ, du khách sẽ được chiêm ngưỡng tận mắt những đồi thông xanh mởn, xen giữa là những cụm rừng già và những sườn đồi thoai thoải, soi bóng xuống mặt hồ. Trước khung cảnh ấy, lòng ta như bâng khuâng, đồng thời lại có cảm giác như vừa trút bỏ được hết những vướng bận của bụi trần để bước chân vào chốn thần tiên.
Buổi sớm, hồ nước phủ đầy sương trắng và yên tĩnh đến lạ kỳ,chỉ có tiếng chim quyện thành vòng, thành chuỗi để rồi tan
Thác Đamri
Khu du lịch thác Damb’ri (Đam Bri) nằm ở phía tây bắc thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Sau khi đi qua 16 km đường nhựa quanh co bên những nương dâu, đồi trà, cà phê xanh ngát, du khách sẽ được đắm mình trong phong cảnh thiên nhiên trong lành hùng vĩ bởi một quần thể thác nước xen giữa khu rừng nguyên sinh rộng hàng ngàn hécta với hàng trăm loài động thực vật quý hiếm đặc trưng của núi rừng Tây Nguyên. Theo truyền thuyết, từ rất xa xưa, trong vùng rừng núi nơi đây có hai bộ tộc cùng sinh sống, nhưng quan hệ giữa hai bộ tộc không được thuận hoà, thường xảy ra những cuộc xung đột, tranh chấp.
Hai bộ tộc lại có đôi trai tài gái sắc yêu nhau tha thiết, chàng tên là K’Dam, nàng là B’Ri. Song họ không thể chung sống với nhau dưới một mái nhà, làm chung một cái rẫy, sinh con đàn cháu đống và sống bên nhau được.
Vào một ngày kia, vì buồn bã cho số phận, không lấy được người mình yêu, chàng K’Dam đã lặng lẽ rời bỏ buôn làng đi sâu vô rừng. Nghe được tin, nàng B’Ri vội vã đi tìm chàng K’Dam. Vượt bao cánh rừng, lội bao con suối, qua bao con trăng tròn, qua bao mùa rẫy, nàng cứ đi tìm hoài, tìm mãi nhưng không thấy chàng đâu mà chỉ thấy con chim rừng than oán cho số phận của nàng.
Trong nỗi thất vọng, nàng trở về ngồi ở khu rừng gần buôn làng, than khóc, đợi chờ, hy vọng chàng sẽ trở về với nàng. Nhưng rồi nàng cứ ngồi khóc hoài, khóc mãi cho đến khi thân xác tan biến thành đất thành đá của núi rừng, nước mắt nàng chảy mãi, chảy mãi tạo thành dòng suối, dòng thác của ngày hôm nay.
Từ đó, vì thương cảm và tưởng nhớ đến tình yêu chung thuỷ của đôi trai tài gái sắc, dân làng hai bộ tộc đặt tên cho dòng thác là thác Damb’ri. Cũng từ đó, hai bộ tộc sống hoà thuận với nhau, con cháu họ có thể cùng sống chung một mái nhà, làm chung một cái rẫy, cùng sinh con đàn cháu đống.
Đến hôm nay, con cháu họ chính là bà con dân tộc Mạ - một trong những dân tộc thiểu số bản địa của tỉnh Lâm Đồng.
Từ đầu năm 1990, thấy được tiềm năng du lịch sinh thái, du lịch văn hoá quý giá của khu thắng cảnh thác Damb’ri, Tổng công ty dâu tằm tơ Việt Nam (TCTDTTVN) thành lập đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch với tên gọi ban đầu là Khu nghỉ dưỡng Damb’ri, là doanh nghiệp trực thuộc văn phòng TCTDTTVN quản lý. Đến ngày 31-5-1997, đơn vị chính thức được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ra quyết định thành lập Công ty Du lịch Damb’ri, đơn vị thành viên của TCTDTTVN với nhiệm vụ chủ yếu là quản lý gần 3.000ha rừng và đất rừng (trong đó bao gồm cả Khu du lịch thác Damb’ri), kinh doanh dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng. Với phương châm tôn trọng và giữ gìn thiên nhiên, đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng thỏa mãn nhu cầu đa dạng của du khách, trong những năm qua, Công ty đã tập trung đầu tư phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa; đồng thời đầu tư một số dịch vụ vui chơi giải trí hiện đại, mới lạ hấp dẫn; xây dựng và mở rộng khách sạn - nhà hàng Damb’ri đạt tiêu chuẩn 2 sao phục vụ nhu cầu nghỉ dưỡng của du khách; ngày càng nhận được sự hưởng ứng, đồng tình của đa số du khách trong và ngoài nước.
* Rừng nguyên sinh Damb’ri bao gồm hàng trăm loài thực vật đặc thù của vùng nhiệt đới với những cây cổ thụ có tuổi thọ hàng trăm năm, to đến 3 – 4 người ôm không xuể, trong đó có những loại gỗ quý hiếm như: sao, kiềng, dổi, hồng tùng, bạch tùng,…Về hệ động vật, rừng Damb’ri có đến hàng trăm cá thể với hàng chục loài động vật khác nhau, trong đó có những loài quý hiếm cần được bảo tồn như: công, chồn mực, voọc, gấu ngựa, các loài khỉ,…
Thác nước Damb’ri là thác chính nằm ngay trung tâm Khu du lịch với chiều cao 57m, mặt thác rộng gần 30m. Đây là thác nước cao nhất ở Lâm Đồng.
Thác Dasara (Đạ Sa-ra) nằm cách trung tâm Khu du lịch Damb’ri khoảng 500m gồm 7 tầng với tổng chiều cao trên 60m.
Thác Daton (Đạ Tồn) nằm cách khu trung tâm Khu du lịch gần 700m, chiều cao thác 25m, bắt nguồn từ một dòng suối nhỏ có thượng nguồn gần khu rừng già, núi đá cao nên nước trong vắt, quanh năm mát lạnh.
Khu hang động cây hoá thạch nằm dưới tầng ba của thác Damb’ri, cách trung tâm Khu du lịch 300m. Hang sâu 50m có thể chứa được khoảng 100 người. Trên đỉnh hang là hàng loạt gốc cây hoá thạch nằm giữa những phiến đá.
Đồi Cù - Đồi Sim rộng 150ha cách trung tâm Khu du lịch 8km, bao gồm ba đồi cỏ nối tiếp nhau với diện tích khoảng 20ha. Trên đồi mọc rải rác những cụm thông tạo cho du khách có cảm giác như ở Đà Lạt. Qua hết Đồi Cù là khu rừng thông bạt ngàn.
Làng dân tộc người Mạ “Một thoáng Tây Nguyên” nằm cách trung tâm Khu du lịch 200m. Đây là khu làng được xây dựng trên một diện tích gần 1ha, ven dòng suối Damb’ri, bao gồm các khu: nhà sàn, nhà rông, khu chế biến rượu cần, khu dệt thổ cẩm, khu đua ngựa, cưỡi voi, sân biểu diễn lễ hội cồng chiêng,…
Khu Vườn Thú - Đảo Khỉ rộng 10ha cách trung tâm Khu du lịch 200m. Đến đây, du khách có dịp tham quan cuộc sống thiên nhiên hoang dã của một số loài chim, thú quý hiếm đã được thuần dưỡng như: khỉ, hươu, nai, cá sấu, công, phượng,... Ngoài ra, du khách còn được tham quan một số loài chim thú quý hiếm đặc thù của núi rừng Tây Nguyên như: gấu, báo, vượn, chồn, cheo, ba ba, kỳ đà,... Đặc biệt, du khách có thể vui đùa, chụp hình lưu niệm với các chú khỉ tinh nghịch, những chú nai vàng ngơ ngác hay chú gấu ngựa nặng trên trăm ký. Sau khi tham quan Vườn Thú – Đảo Khỉ, du khách mua vé xem xiếc với chương trình biểu diễn xiếc thú - ảo thuật vui nhộn, hấp dẫn.
Dịch vụ dã ngoại có hai loại hình:
-Ngủ tại khách sạn Damb’ri; tham quan toàn bộ Khu du lịch Damb’ri, thác Damb’ri, thác Dasara, thám hiểm hang động cây hoá thạch, tham quan làng dân tộc, Đồi Cù - Đồi Sim bằng xe Jeep, voi, ngựa,…; du ngoạn trên hồ Damb’ri bằng ca-nô.
-Ngủ lều trại có nệm, sinh hoạt lửa trại, xem biểu diễn cồng chiêng của người Mạ; tham quan toàn bộ Khu du lịch Damb’ri.
Dịch vụ thang máy là công trình đầu tư xây dựng theo công nghệ của Italia - Nhật đưa vào hoạt động từ năm 2000. Thang máy cao 50m có lồng kính bao quanh, đưa khách từ đỉnh thác xuống chân thác và ngược lại. Đứng trong thang máy, du khách thưởng ngoạn dòng thác đổ.
Dịch vụ này đặc biệt tiện lợi cho người già, trẻ em và người có sức khoẻ yếu vẫn có cơ hội chiêm ngưỡng dòng thác Damb’ri ở những góc độ kỳ thú, đẹp mắt.
Dịch vụ khách sạn - nhà hàng gồm 2 khu nhà hàng:
-Nhà hàng khách sạn Damb’ri nằm ngay trung tâm Khu du lịch với kiến trúc hiện đại, thoáng mát, có thể phục vụ 200 khách cùng một lúc. Khách sạn có 10 phòng ngủ đầy đủ tiện nghi.
-Nhà hàng Kơnia nằm gần Vườn Thú - Đảo Khỉ, lẫn khuất trong khu rừng nguyên sinh, với kiến trúc dạng hoang sơ, đặc thù của Tây Nguyên. Đặc biệt, nhà hàng chuyên phục vụ các món ăn đặc sản Tây Nguyên, rượu cần. Đây là nơi các bạn trẻ đến liên hệ tổ chức cắm trại, sinh hoạt lửa trại, xem lễ hội cồng chiêng, tìm hiểu, giao lưu văn hoá với các bạn trẻ Châu Mạ. Dịch vụ vui chơi giải trí bao gồm một số dịch vụ vui chơi giải trí hiện đại, mới lạ, hấp dẫn, phù hợp với mọi lứa tuổi (xe điện đụng, thuyền đụng, ca-nô,…) hay một số sinh hoạt mang đậm dấu ấn Tây Nguyên như: cưỡi voi tham quan thác, rừng nguyên sinh, câu cá trên hồ Damb’ri
Thác Gougah
Trên quốc lộ 20, từ Đà Lạt đến Thành phố Hồ Chí Minh, cách Đà Lạt 37km, xe rẽ phải chạy tiếp khoảng 900m sẽ đến Khu du lịch sinh thái thác Gougah (Gugah, Gu Ga).
Toàn cảnh thác Gougah
Ngày xưa, gần thác có một khoảng đất trống trẻ em thường đến chơi đùa, gọi là Blàng Gugah, người Pháp đặt tên thác là Gougah.
Khu du lịch sinh thái thác Gougah, rộng 129ha, nằm trên địa bàn xã Phú Hội thuộc huyện Đức Trọng, do Công ty trách nhiệm hữu hạn du lịch Tài Nhân quản lý.
Thác Gougah
Thác Gougah cao 30m tuôn bọt trắng xoá. Vào mùa mưa, tiếng thác đổ vang dội cả núi rừng. Hơi nước bốc lên phản chiếu ánh sáng mặt trời tạo thành cầu vòng với 7 màu rực rỡ. Hiện nay, Công ty Tài Nhân đã phát quang và tạo nhiều bậc cấp nên đường dẫn xuống thác dễ đi hơn thuở thác còn hoang sơ.
Thác Gougah ngày xưa
Thượng nguồn thác là dòng chảy Đa Nhim có chiều rộng khoảng 30m dẫn đến thác rộng 60m đổ xuống vực sâu tạo thành thác. Về phía tả ngạn là rừng tái sinh và cây mới trồng rộng chừng 6ha, phù hợp cho tổ chức cắm trại. Đồi thông này tiếp nối với khu rừng gần thác Bảo Đại. Từ hữu ngạn sông Đa Nhim đến quốc lộ 20 cũ là những ngọn đồi rộng khoảng 3ha trước đây là đồi trọc, nay đã trồng phủ cây bạch đàn và nhiều loại cây rừng.Thác Gougah
Cách thác Gougah khoảng 2km có một mạch nước khoáng nóng. Chuyên viên địa chất khảo sát nước khoáng cho thấy thành phần nước chứa các nguyên tố hoá học có thể sử dụng sản xuất nước khoáng thiên nhiên và còn dùng để chữa bệnh theo phương pháp vật lý trị liệu.
Ngoài vườn hoa, cây cảnh, vườn cầm thú, quầy lưu niệm, quán cà phê, quán ăn bình dân, trạm dừng chân ven đường xuống chân thác, môn leo núi bằng dây,… Khu du lịch sinh thái thác Gougah còn có một số nhà nghỉ nhỏ mái rất dốc, mang dáng dấp nhà rông Tây Nguyên, thích hợp cho những du khách muốn dừng chân, tìm sự yên tĩnh, không khí trong lành, ngắm nhìn dòng thác cuồn cuộn với những rừng cây bạt ngàn.
Nhà thơ Xuân Diệu đã một lần đặt chân đến thác Gougah và cảm hứng sáng tác những dòng thơ:
“Đổ ào ào, đổ Gu Ga
Sông Đa Nhim tới đã oà thành bông
Thành thơ trắng xoá một vùng
Bạc vàng tuôn xuống vô cùng thời gian”.
Ngoài vườn hoa, cây cảnh, vườn cầm thú, quầy lưu niệm, quán cà phê, quán ăn bình dân, trạm dừng chân ven đường xuống chân thác, môn leo núi bằng dây,… Khu du lịch sinh thái thác Gougah còn có một số nhà nghỉ nhỏ mái rất dốc, mang dáng dấp nhà rông Tây Nguyên, thích hợp cho những du khách muốn dừng chân, tìm sự yên tĩnh, không khí trong lành, ngắm nhìn dòng thác cuồn cuộn với những rừng cây bạt ngàn.
Nhà thơ Xuân Diệu đã một lần đặt chân đến thác Gougah và cảm hứng sáng tác những dòng thơ:
“Đổ ào ào, đổ Gu Ga
Sông Đa Nhim tới đã oà thành bông
Thành thơ trắng xoá một vùng
Bạc vàng tuôn xuống vô cùng thời gian”.
Chùa Linh Quang
Vị trí: Chùa Linh Quang tọa lạc tại số 133 đường Hai Bà Trưng, thuộc khu phố 4, thành phố Đà Lạt. Lịch sử. Chùa do Hoà thượng Thích Nhân Thứ tạo lập vào năm 1931, sau đó được các hoà thượng trụ trì kế tiếp trùng tu.
Đặc điểm địa lý: Chùa có lối kiến trúc cổ, mái chồng cong, trên mái hình long, lân, quy, phụng được gắn bằng những mảnh sành đủ màu sắc.
Chính điện thờ đức phật Thích ca, hai bên là Bồ tát Quán Thế Âm và Hộ Pháp. Trong khuôn viên chùa có khu vườn tháp mộ. Chùa được xem là ngôi Tổ đình đầu tiên của thành phố Đà Lạt.